Sông Lam Nghệ An F.C.
Full name | Sông Lam Nghệ An Football Club | ||
---|---|---|---|
Nickname(s) | Đội bóng xứ Nghệ | ||
Founded | 1979 | ||
Ground |
Vinh Stadium Vinh, Nghệ An, Vietnam | ||
Capacity | 18,000 | ||
Chairman | Nguyễn Hồng Thanh | ||
Manager | Ngô Quang Trường | ||
League | V.League 1 | ||
2014 | V.League 1, 5th | ||
| |||
Sông Lam Nghệ An Football Club (Vietnamese: Câu lạc bộ bóng đá Sông Lam Nghệ An) is a professional football club, based in Nghệ An, Vietnam. They are now playing in V.League 1. The team is currently playing at Vinh Stadium.
Honours
- V-League:
- Champions (3): 1999-00, 2000-01, 2010-11
- Vietnamese Cup:
- Champions (2): 2002, 2010
- Champions (4): 2000, 2001, 2002, 2011
Performance in AFC competitions
- Asian Club Championship: 2 appearances
- AFC Cup: 2 appearances
- 2011: Round of 16
- 2012: Group stage
Season | Competition | Round | Club | Home | Away | |
---|---|---|---|---|---|---|
2000–01 | Asian Club Championship | First round | PSM Makassar | 1-4 | 0-0 | |
2001–02 | Asian Club Championship | First round | Saunders SC | (w/o)1 | ||
2011 | AFC Cup | Group stage | TSW Pegasus FC | 1-2 | 3-2 | |
Group stage | VB Sports Club | 4-2 | 3-1 | |||
Group stage | Sriwijaya F.C. | 4-0 | 1-3 | |||
Round of 16 | Persipura Jayapura | 1-3 | ||||
2012 | AFC Cup | Group stage | Terengganu | 0-1 | 2-6 | |
Group stage | Tampines Rovers | 3-0 | 0-0 | |||
Group stage | Kitchee | 1-0 | 0-2 | |||
1 Sông Lam Nghệ An withdrew.
Record as V.League member
Season | Pld | Won | Draw | Lost | GF | GA | GD | PTS | Final position | Notes |
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
2013 V.League 1 | 20 | 9 | 6 | 5 | 40 | 24 | +16 | 33 | 4th | |
2012 V-League | 26 | 9 | 14 | 3 | 44 | 30 | +14 | 41 | 4th | |
2011 V-League | 26 | 15 | 4 | 7 | 48 | 29 | +19 | 49 | Champions | Qualified for 2012 AFC Cup |
2010 V-League | 26 | 9 | 10 | 7 | 36 | 26 | +10 | 37 | 8th | Qualified for 2011 AFC Cup |
2009 V-League | 26 | 11 | 10 | 5 | 39 | 28 | +11 | 43 | 3rd | |
2008 V-League | 26 | 10 | 7 | 9 | 45 | 35 | +10 | 37 | 9th | |
2007 V-League | 26 | 8 | 11 | 7 | 38 | 35 | +3 | 35 | 7th | |
2006 V-League | 24 | 9 | 9 | 6 | 27 | 27 | 0 | 26 | 5th | |
2005 V-League | 22 | 8 | 7 | 7 | 33 | 28 | +5 | 31 | 5th | |
2004 V-League | 22 | 9 | 10 | 3 | 38 | 17 | +21 | 37 | 4th | |
2003 V-League | 22 | 9 | 5 | 8 | 25 | 16 | +9 | 32 | 5th | |
2001–02 V-League | 18 | 8 | 4 | 6 | 22 | 20 | +2 | 28 | 2nd | |
2000–01 V-League | 18 | 11 | 3 | 4 | 20 | 16 | +4 | 36 | Champions | Qualified for 2001–02 Asian Club Championship |
1999–2000 | 24 | 11 | 10 | 3 | 35 | 20 | +15 | 43 | Champions | |
Current squad
As of Feb 2015
Note: Flags indicate national team as defined under FIFA eligibility rules. Players may hold more than one non-FIFA nationality.
|
|
Current coaching staff
Position | Name |
---|---|
General Manager | Nguyễn Hồng Thanh |
Manager | Ngô Quang Trường |
Assistant Manager | Nguyễn Xuân Vinh |
Goalkeeping Coach | Phạm Văn Hùng |
Translator | Nguyễn Hồng Quân |
Doctor | Trần Ngọc Mạnh |
Head coach history
Name | Nat | Period | Honours | |
---|---|---|---|---|
Nguyễn Thành Vinh | 1980–2004 | 2001 V-League winner | ||
Nguyễn Văn Thịnh | 2004–05 | |||
Nguyễn Hữu Thắng | 2005 | |||
Nguyễn Quang Hải | 2005–06 | |||
Hà Thìn | 2006–07 | |||
Nguyễn Quang Hải | 2007 | |||
Nguyễn Văn Thịnh | 2007–09 | |||
Nguyễn Hữu Thắng | 2009–2014 | 2011 V-League winner | ||
Ngô Quang Trường | 2014– |
References
Template:History - Lịch sử hình thành và phát triển
SLNA được coi là một đội bóng “trẻ” trong làng bóng đá Việt Nam. So với những Thể Công, Cảng Sài Gòn, CAHN, CAHP, thì Sông Lam là đội bóng đi sau về truyền thống.
Tuy nhiên, truyền thống bóng đá của xứ Nghệ không phải chỉ bắt đầu với những thành công của SLNA. Trước đây, trong thời kỳ thuộc Pháp, Vinh - Bến Thuỷ cũng đã có một đội bóng lừng danh mang tên là Đội Áo vàng (có lẽ vì vậy nên màu áo truyền thống của SLNA ngày nay cũng là màu vàng). Thời kỳ những năm 1970, nhiều người con xứ Nghệ cũng đã góp phần tạo nên thời kỳ huy hoàng của bóng đá Việt Nam với những tên tuổi lẫy lừng như Ngô Xuân Quýnh, Văn Sĩ Chi, Thái Nguyên Bền, Lê Mai Tú, Hà Thìn …
Là đội bóng của xứ sở có nhiều truyền thống bóng đá, nhưng SLNA đã phải vật lộn với nhiều khó khăn, vất vả để có được những thành công như ngày nay. Quá trình hình thành và phát triển hơn 20 năm của đội có thể nói là 20 năm đầy mồ hôi và sức lực của tiếp nối các thế hệ cầu thủ, các nhà lãnh đạo, các huấn luyện viên cùng với sự cổ vũ nhiệt tình của các cổ động viên xứ Nghệ trong cả nước.
Lịch sử hình thành và phát triển của SLNA có thể được tóm tắt qua các điểm mốc thời gian sau đây:
Năm 1973 Đội bóng đá Ban chấp hành quân sự tỉnh Nghệ Tĩnh được thành lập. Đội bóng này được coi là tiền thân của Đoàn bóng đá SLNA ngày nay. Từ năm 1973 cho đến năm 1979, đội thi đấu ở hạng B quốc gia.
Mùa giải năm 1978 – 1979 - Đội được thăng hạng từ hạng B lên hạng A2 - Ngày 28 tháng 2 năm 1979, Đội bóng đá Ban chấp hành quân sự tỉnh chính thức được Uỷ ban nhân dân tỉnh Nghệ Tĩnh quyết định đổi tên thành Đội bóng đá Sông Lam;
Năm 1980 Huấn luyện viên Nguyễn Thành Vinh bắt đầu nắm đội 1 của Nghệ An. Ông đã đóng góp nhiều nhiệt huyết cho đội nhà và mang lại một lối đá đặc trưng cho Sông Lam trong thời gian gần đây.
Năm 1988 Đội bóng đá Sông Lam Nghệ Tĩnh được chuyển về ngành Thể dục Thể thao quản lý, điều hành.
Năm 1984 Đội được thăng hạng A1, hạng cao nhất trong hệ thống thi đấu giải quốc gia lúc bấy giờ cùng các đội CATPHCM và CAHP, CATH. Từ năm 1984 đến nay, đội luôn có mặt trong hạng đấu cao nhất của bóng đá nước nhà. Năm 1984 cũng ghi nhận một sự kiện đáng ghi nhớ. Đó là lễ đón đội thi đấu lên hạng thành công. Bà con xứ Nghệ đã tổ chức đón rước đội bóng từ Quỳnh Lưu về đến Sân Vinh dọc theo đường Quốc lộ 1 với tiếng pháo nổ không dứt.
Năm 1989 Trong giải thi đấu chuyển hạng (chuyển hạng A1 thành hạng đội mạng), Sông Lam Nghệ Tĩnh đã thi đấu xuất sắc, đứng đầu bảng B nên được đặc cách lên hạng đội mạnh (đội đầu tiên được chuyển hạng). Trong mùa giải này, Sông Lam Nghệ Tĩnh không phải thi đấu giai đoạn 2 nên được cử làm Đại diện cho Việt Nam đi dự giải bóng đá ba nước Đông dương tại CHDCND Lào và đạt Huy chương bạc
Từ 1989 – 1990 Đội hai lần đạt giải vô địch giải bóng đá Thủ đô, một lần đạt giải nhì giải bóng đá các đội phía bắc.
Năm 1991 Đội thi đấu kém phong độ và phải tham gia vòng chung kết ngược. Giải này có một trận đấu được HLV Nguyễn Thành Vinh cho là đáng nhớ nhất trong cuộc đời HLV của ông. Đó là trận quyết định trụ hạng của Sông Lam Nghệ Tĩnh với Long An tại sân Nha Trang. Ngay ở phút thứ 3 đội đã bị dẫn bàn trước. Sau đó, thủ môn của đội lại phải nhận thẻ đỏ ra sân. Nhưng sau đó, với tinh thần thi đấu kiên cường, đội đã gỡ hoà và thắng trong loạt đấu luân lưu 11m, trụ hạng thành công.
Năm 1992 Nghệ Tĩnh được tách thành hai tỉnh là Nghệ An và Hà Tĩnh. Sông Lam Nghệ Tĩnh được đổi tên thành SLNA. Tuy nhiên, trên thực tế Sông Lam Nghệ Tĩnh vẫn được coi là “niềm tự hào của người dân xứ Nghệ” gồm cả Nghệ An và Hà Tĩnh. Trong năm này, Uỷ ban nhân dân tỉnh Nghệ An cũng đã có một quyết định quan trọng đánh dấu sự chuyển đổi của bóng đá Nghệ An, đó là việc cho phép Đội bóng đá Sông Lam được hạch toán độc lập, có con dấu, tài khoản riêng. Ngay trong năm đầu tiên hoạt động theo mô hình mới, đội đã đạt huy chương đồng giải vô địch đội mạnh toàn quốc
Năm 1994 Ngày 21 tháng 3 năm 1994, Uỷ ban nhân dân tỉnh có Quyết định 224, đổi tên Đội bóng đá SLNA thành Đoàn bóng đá Sông Lam - một đơn vị sự nghiệp thuộc ngành Thể dục Thể thao
Năm 1995 Có hai sự kiện gắn liền với mối quan hệ với kỳ phùng địch thủ Thể Công. Trong lượt đi, SLNA đã thua Thể Công 1-2 trong trận đấu đầy tai tiếng ở sân Cột Cờ với pha thụp người đẩy bóng vào lưới của Quốc Trung. Trong trận lượt về, Sông Lam đã thi đấu đúng sức và thắng Thể Công 1-0, đẩy đội này vào thi đấu vòng chung kết ngược “nổi tiếng” trong lịch sử bóng đá Việt Nam sau đó. Năm này SLNA cũng đã đóng góp cho đội tuyển quốc gia cầu thủ Nguyễn Hữu Thắng, thi đấu xuất sắc giành Huy chương bạc SEA Games 18.
Năm 1996 Bóng đá Việt Nam có bước chuyển lớn với việc đổi tuyển quốc gia đạt Huy chương bạc SEA Games 18 tại Thái Lan. Giải vô địch quốc gia Việt Nam được người hâm mộ chú ý hơn với các trận đấu bắt đầu được truyền hình trực tiếp trên VTV. Các giải bóng đá trẻ cũng được tổ chức thành hệ thống. Trong mùa bóng này, SLNA cũng bắt đầu ghi tên mình vào hàng ngũ các đội bóng xuất sắc của Việt Nam. Đội hình một và các đội trẻ của đội đã có những thành công bước đầu: - Đội 1: thi đấu xuất sắc và đạt Huy chương đồng giải vô địch quốc gia, Huy chương đồng Cúp quốc gia - Đội U11: Đội nhi đồng Nghệ An cũng đạt Huy chương đồng giải U11 quốc gia ngay trong lần đầu tiên tham dự
Sân nhà:
Sân vận động thành phố Vinh, phố Đào Tấn.
Đơn vị chủ quản: Sở TDTT Nghệ An.
Điều kiện sân: Mặt cỏ tốt, có hệ thống đèn thi đấu đêm.
Sân Vinh đã từng tổ chức thành công các giải bóng đá trẻ quốc gia, Vòng chung kết Cúp quốc gia 2002.
Thành tích:
Đội 1:
- Năm 1979:
Lên hạng A2 toàn quốc.
- Năm 1984:
Lên hạng A1 toàn quốc (hạng cao nhất lúc đó).
- Năm 1989:
Phân hạng lên đội mạnh, đội được lên hạng đội mạnh.
- Năm 1992:
Hạng 3 giải VĐQG.
- Năm 1996:
Hạng 3 Dunhill Cup, Cup quốc gia và giải VĐQG.
- Năm 1997:
Vô địch Giải bóng đá trong nhà hạng 7 giải VĐBĐ trong nhà Thế giới tại Singapore; Vô địch Cup bóng đá Nhà Vua Thái Lan mở rộng.
- Năm 1998:
Hạng nhì Giải VĐQG; hạng 3 Cup quốc gia; Vô địch Dunhill Cup; Vô địch Giải bóng đá trong nhà.
- Năm 1999:
Vô địch Giải bóng đá mùa Xuân (không có giải VĐQG); Vô địch Dunhill Cup.
- Năm 2000:
Vô địch Giải bóng đá Vô địch quốc gia chuyên nghiệp ( V_League ); Đoạt Siêu Cup Quốc gia; Tham dự Cup C1 Châu Á.
Năm 2001:
Vô địch V_League; Vô địch Cup Quốc gia; Đoạt Siêu Cup Quốc gia.
- Năm 2002:
Vô địch Cup Quốc gia; Hạng 3 giải V_League; Đoạt Siêu Cup Quốc gia; Vô địch giải đội hình 2 VĐQG chuyên nghiệp.
- Năm 2003:
Hạng 5 giải V_League; Vô địch Cup Hà Nội ACB mở rộng; Vô địch JVC Cup báo Thể thao TPHCM tại Hà Nội.
- Năm 2004:
Hạng 4 V_League;
- Năm 2005:
Hạng 5 V_League;
- Năm 2006:
Hạng 5 V_League;
- Năm 2007:
Hạng 7 V_League;
- Năm 2008:
Hạng 9 V_League;
- Năm 2009:
Hạng 3 V_League;
- Năm 2010:
Hạng 9 V_League; Vô địch Cup Quốc Gia
- Năm 2011:
Vô địch V_League; Đoạt Siêu cup (?)
- Năm 2012:
Hạng 4 V_League;
- Năm 2013:
Hạng 4 V_League;
- Năm 2014:
Hạng 5 V_League;
- Năm 2015:
Vô địch Hội khỏe phù đổng toàn Quốc
Các đội trẻ:
- Năm 1996: Huy chương đồng U11.
- Năm 1997: Huy chương bạc U11; Huy chương bạc U14.
- Năm 1998: Huy chương đồng U11, U18; Huy chương vàng U14, U16.
- Năm 1999: Huy chương đồng U11, U14; Huy chương bạc U16; Huy chương vàng U18.
- Năm 2000: Huy chương vàng U21; Huy chương đồng U11, U18.
- Năm 2001: Huy chương vàng U21, U18.
- Năm 2002: Huy chương vàng U21, U15; Huy chương bạc U18.
- Năm 2003: Huy chương bạc U21.
- Tiếp tục cập nhật ...
Các cầu thủ tiêu biểu: - Nguyễn Hữu Thắng: Quả bóng bạc Việt Nam năm 1997, Bằng khen của Thủ tướng Chính phủ năm 1997 và 1998. - Võ Văn Hạnh: Quả bóng vàng Việt Nam năm 2001. - Nguyễn Huy Hoàng: Cầu thủ trẻ xuất sắc nhất năm 2001, là một trong 10 VĐV tiêu biểu của TTVN năm 2001. - Phạm Văn Quyến: Cầu thủ trẻ xuất sắc nhất VCK U16 Châu Á năm 2000, là 1 trong 10 VĐV tiêu biểu của TTVN năm 2000, cầu thủ xuất sắc nhất đội Olympic Việt Nam tham dự SEA Games 22, Quả bóng vàng Việt Nam, là một trong 10 VĐV tiêu biểu của TTVN năm 2003. - Iddi Batabuze: cầu thủ ngoại xuất sắc nhất năm 2001. - Enock Kyembe: là một trong 10 cầu thủ ngoại tiêu biểu năm 2001.
Tập thể CLB: - Được Nhà nước tặng thưởng Huân chương Lao động hạng 3 về thành tích 20 năm phấn đấu trưởng thành (tháng 6/1999). - Cờ đơn vị thi đua xuất sắc của UBND Tỉnh Nghệ An 2 năm liền 1998, 1999-2000. - Cờ thi đua của Chính phủ tặng đơn vị dẫn đầu phong trào thi đua năm 2000-2001. - Cờ đơn vị hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ mùa giải 2000-2001 của UBND tỉnh Nghệ An.
External links
|